“Lũ tiểu quỷ, ăn cơm thôi! U lê lê lê lê~”
Thắt tạp dề, Thôi Quế Anh tay trái cầm bát, tay phải cầm muôi, vừa gọi vừa gõ vào mép chum cháo.
Lý Duy Hán, ngồi bên cạnh đang nhồi thuốc vào tẩu nước, giơ chân đá vào mông vợ, bực bội mắng:
“Bà bị úng não à? Gọi lợn con chắc?”
Thôi Quế Anh trừng mắt lườm chồng, đặt mạnh chồng bát xuống trước mặt ông ta, rồi nhổ một bãi nước bọt, chửi:
“Phì! Lợn còn không phá như tụi nó, cũng không ăn khỏe bằng tụi nó đâu!”
Tiếng gọi vang lên, một đám trẻ con từ ngoài cửa ùa vào. Bảy đứa con trai, bốn đứa con gái, đứa lớn nhất mười sáu, đứa nhỏ nhất mới ba tuổi.
Vợ chồng Lý Duy Hán có bốn trai một gái, sau khi trưởng thành đều đã ra ở riêng. Ngày thường, chỉ có con trai cả là sống gần nhà, gửi cặp sinh đôi ba tuổi sang đây nuôi giúp.
Thế mà đến kỳ nghỉ hè, không biết là vì tiện lợi hay sợ bản thân không được hưởng lợi từ cha mẹ thì coi như thiệt thòi, tóm lại, ai nấy đều đem con cái gửi sang đây.
Đã nhận con của con cả, không lẽ lại từ chối mấy đứa khác? Thế là trong nhà bỗng dưng chẳng khác gì một lớp học.
Cái ngọt ngào của cảnh cháu con đầy đàn còn chưa kịp tận hưởng, hai vợ chồng đã thấy hũ gạo trong nhà sắp cạn đến nơi.
Người ta vẫn nói: “Nửa lớn nửa bé, ăn hết của cha mẹ.” Đám nhỏ, trai gái gì cũng đang tuổi ăn tuổi lớn, bụng dạ như hố không đáy. Nhà Thôi Quế Anh mỗi bữa phải dùng chum đựng cơm, một chum còn chưa đủ, trên bếp lúc nào cũng phải giữ nóng thêm một nồi.
Tuy nói cháu chắt đã đầy nhà, nhưng hai vợ chồng vẫn chưa đến tuổi quá già, mà theo lệ làng quê, trừ phi ốm liệt giường không còn khả năng lao động, nếu vẫn còn sức xuống ruộng thì dù lớn tuổi đến đâu cũng không có tư cách hưởng cơm con cháu phụng dưỡng.
“Đừng có tranh! Đừng có tranh! Mấy đứa đầu thai từ kiếp quỷ đói à? Xếp hàng ngay ngắn cho ta!”
Lũ trẻ cầm bát xếp hàng chờ nhận cháo, Thôi Quế Anh đứng phát từng bát một.
Người đến cuối cùng là một bé trai mười tuổi, mặc quần yếm bò, đi dép xăng-đan đang thịnh hành. Da dẻ trắng trẻo, khuôn mặt có chút rụt rè.
Cậu bé trông có phần lạc lõng so với đám anh chị em xung quanh, đứa nào đứa nấy đều nghịch ngợm đến lấm lem, mũi thò lò chưa kịp lau.
“Tiểu Viễn Hầu, lại đây, ăn ở chỗ này nhé.”
“Con cảm ơn bà ạ.”
Thôi Quế Anh mỉm cười xoa đầu đứa bé. Trong cả bầy cháu nội ngoại, đây là đứa cháu ngoại duy nhất của bà. Nhưng giờ thì không phải nữa rồi.
Thằng bé tên Lý Truy Viễn, mẹ nó là con gái út của Thôi Quế Anh, cũng là người đầu tiên trong lịch sử thôn Tư Nguyên thi đỗ đại học.
Con gái út của bà thi đỗ một trường đại học ở Bắc Kinh, tốt nghiệp xong ở lại làm việc, cũng tự mình tìm bạn đời. Trước khi cưới có đưa chồng về ra mắt một lần, là người thành phố, trông trắng trẻo thư sinh.
Hình dáng cụ thể thế nào thì bà cũng không nhớ rõ, vì hôm đó hai vợ chồng bà quá đỗi dè dặt trước mặt con rể, chẳng dám nhìn kỹ.
Sau này, con gái mang thai, sinh được một bé trai. Đường xá xa xôi, công việc lại bận rộn, nên từ đó chưa từng quay về nhà. Nhưng từ khi tốt nghiệp đi làm, tháng nào con gái cũng gửi tiền về cho cha mẹ.
Tiền gửi về trước khi cưới, vợ chồng Lý Duy Hán đều để dành. Bốn người con trai lần lượt cưới vợ, dù có khó khăn đến đâu, họ cũng cố cắn răng không động đến một xu. Đến khi con gái đưa chồng về ra mắt, Lý Duy Hán không những từ chối sính lễ của con rể, mà còn gửi trả lại số tiền con gái đã gửi trước đó.
Ban đầu, hai vợ chồng cũng định hào phóng một chút, góp thêm ít tiền nữa. Nhưng bốn con trai cưới vợ trước rồi, có thắt lưng buộc bụng đến mấy thì cũng chẳng vắt ra được đồng nào nữa.
Chuyện này vẫn luôn khiến hai vợ chồng cảm thấy áy náy. Tiền con gái gửi, rồi lại trả về cho con, chẳng khác nào khi gả con đi, bậc làm cha làm mẹ như họ chẳng đóng góp được gì, thật mất mặt.
Còn số tiền con gái gửi về sau khi kết hôn, hai vợ chồng cũng đều cất giữ. Mấy đứa con trai từng bị vợ xúi giục, viện đủ lý do để nhắm vào khoản tiền này, nhưng đều bị Lý Duy Hán chỉ thẳng mặt chửi mắng đuổi về.
Nửa tháng trước, con gái nhờ một người mặc quân phục đưa con trai đến, mang theo một bức thư và một khoản tiền. Trong thư, cô nói mình đã ly hôn, công việc gần đây có sự thay đổi, không thể chăm sóc con nên tạm thời nhờ cha mẹ nuôi giúp một thời gian.
Cô còn nói, sau khi ly hôn, cô đã đổi họ cho con trai theo họ mình, vậy nên đứa cháu ngoại này giờ cũng thành cháu nội.
Sau khi đến làng quê, Lý Truy Viễn không hề cảm thấy bỡ ngỡ, ngược lại, cậu nhanh chóng hòa nhập, ngày nào cũng chạy theo mấy anh em, rong chơi khắp đầu thôn cuối xóm, vui vẻ vô cùng.
Bữa chính hôm nay là cháo khoai lang, có vị ngọt nhưng không chắc bụng, tiêu hóa nhanh. Dù có húp mấy bát no căng đến tròn vo cả bụng, chỉ cần chạy nhảy nô đùa một lát là lại thấy đói.
Hơn nữa, ăn cháo khoai hay khoai luộc quá nhiều, lâu dần sẽ làm hại dạ dày. Đến mức dù không đói, chỉ cần nhìn thấy khoai thôi là trong bụng đã dâng lên vị chua chát.
Nhưng Lý Truy Viễn thì chưa thấy chán, cậu rất thích bầu không khí ăn uống đông vui kiểu “đại canteen” thế này. Hơn nữa, các loại dưa muối và tương chấm do Thôi Quế Anh làm cũng hợp khẩu vị của cậu.
“Nội ơi, sao hôm nay mình không đi ăn cỗ ở nhà ông râu rậm ạ?”
Người hỏi là con trai của nhị bá, tên ở nhà là Hổ Tử, năm nay chín tuổi.
Thôi Quế Anh búng đũa lên đầu thằng bé, mắng:
“Cái thằng nhãi ranh này, người ta có tang mẹ mới làm cỗ, mày tưởng ai cũng rảnh mà bày cỗ suốt ngày chắc?”
Hổ Tử vừa ôm đầu vừa lẩm bẩm: “Sao lại không được, ngày nào cũng có cỗ thì tốt biết mấy.”
“Thằng quỷ này nói gì vớ vẩn thế, nhà người ta dù có muốn cũng đâu có nhiều người mà xếp hàng chờ chết cho mày ăn cỗ hằng ngày hả?”
“Bốp!” Lý Duy Hán dằn mạnh đũa xuống bàn, quát:
“Bà là người lớn mà nói năng vớ vẩn gì với con nít vậy?”
Thôi Quế Anh cũng nhận ra mình lỡ lời, nhưng lần này không cãi lại chồng mà chỉ xúc một thìa tương chấm, đưa vào bát cháo của Lý Truy Viễn. Tương này có lạc vụn và ít thịt băm, vừa nãy bà xúc đúng miếng có cả thịt.
Lý Truy Viễn dùng đũa khuấy nhẹ, tương hòa vào cháo, để lộ mấy miếng thịt trắng nõn nổi lềnh bềnh trên mặt.
Đám trẻ con mắt tinh, lại còn ham công bằng chứ không sợ ít nhiều. Hổ Tử lập tức la lên:
“Nội, con cũng muốn thịt! Giống như của anh Viễn ấy!”
“Nội, con cũng muốn!”
“Con cũng thế!”
Những đứa khác cũng bắt đầu xôn xao đòi theo.
“Đi đi đi!” Thôi Quế Anh bực bội mắng, “Mấy đứa nhỏ không hiểu chuyện thì không nói, còn Phan Hầu, Lôi Hầu, Anh Hầu mấy đứa lớn rồi mà cũng hùa theo à? Các anh chị mà cũng không biết điều thế sao? Hôm nay mấy đứa được ăn là nhờ tiền mẹ của Tiểu Viễn Hầu gửi về mua đấy! Ba mẹ tụi con chẳng đóng góp hạt gạo nào cho nội đâu, còn mặt mũi nào mà tranh của người ta?”
Phan Tử, Lôi Tử và Anh Tử ngượng ngùng cúi đầu, còn mấy đứa nhỏ thì chỉ nhìn nhau cười trừ, coi như chuyện này bỏ qua.
Bà nội cũng từng bóng gió nhắc nhở, bọn trẻ cũng đã về nói với cha mẹ. Nhưng cha mẹ chúng lại dặn chúng cứ giả vờ ngây ngô, coi như không biết gì.
Lúc này, Thạch Đầu, con trai của lão tam, năm nay tám tuổi, đột nhiên hỏi:
“Vậy Tiểu Hoàng Oanh còn ở đây không ạ?”
Thôi Quế Anh ngạc nhiên: “Tiểu Hoàng Oanh là ai?”
Hổ Tử nhanh nhảu đáp: “Nội ơi, Tiểu Hoàng Oanh là cô hôm qua hát và nhảy múa ở nhà ông râu rậm ấy, hát hay lắm, múa cũng đẹp nữa!”
“Thế à.” Thôi Quế Anh hôm qua bận rửa bát giúp người ta trong bếp, chân không chạm đất, làm gì có thời gian ra trước xem đám diễn trò trong đám ma.
Chồng bà, Lý Duy Hán, cũng không đi. Ông lấy cớ đi thuyền, nhưng thực ra vẫn ở nhà. Lý do không đi là vì ngại, dù sao cũng đã để Phan Tử, Lôi Tử dắt theo Viễn Tử, Hổ Tử, Thạch Đầu—năm đứa trẻ con—tới ăn cỗ rồi. Nếu ông mà đi nữa thì trông hơi khó coi.
Năm đứa không chỉ ăn no bụng mà còn lén mang về không ít thức ăn, nhất là mấy món cứng vốn được chia theo suất. Lý Truy Viễn bắt chước mấy anh, xé một góc tấm nilon đỏ trải bàn, gói đồ ăn mang về.
Về đến nhà, chúng lại chia cho mấy đứa em không được đi ăn cỗ. Nhìn bọn nhỏ vui vẻ ăn uống, chúng cảm thấy mình như những tướng quân vừa thắng trận trở về.
Lôi Tử nói: “Hát hay lắm, người cũng xinh, cô ấy bảo chúng tôi gọi là Tiểu Hoàng Oanh.”
Phan Tử gật đầu: “Tính tình cũng tốt, người đẹp, quần áo cũng đẹp. Sau này lớn lên, em muốn cưới một người như thế.”
Thôi Quế Anh cúi đầu hỏi Lý Truy Viễn bên cạnh: “Tiểu Viễn Hầu, có đúng thế không?”
“Vâng.” Lý Truy Viễn đặt đũa xuống, gật đầu, “Đẹp lắm.”
Những gánh hát trong đám ma ở quê vốn phải đảm đương đủ việc, từ cúng bái đến múa hát.
Lúc hành lễ, họ khoác đạo bào, cà sa, miệng niệm kinh pháp, trông nghiêm trang như tiên phong đạo cốt.
Còn sau bữa cỗ trưa, họ lại tổ chức biểu diễn văn nghệ, từ ca hát, nhảy múa đến xiếc ảo thuật, có gì hay ho đều đem ra diễn hết.
Nhà nào giàu có, thích phô trương còn mời hẳn đoàn biểu diễn buổi tối, nhưng mấy buổi đó, người lớn đều bắt bọn trẻ con về ngủ hết.
Tiểu Hoàng Oanh họ Tiêu, tên thật là Tiêu Hoàng Anh, nghệ danh là Tiểu Hoàng Oanh. Thực ra, cô ta đã ngoài ba mươi, từng ly hôn.
Về khoản ca hát, nhảy múa, trình độ cũng chỉ tàm tạm, nhưng bù lại, cô biết cách ăn diện, mặc đồ thời thượng và táo bạo.
Một chiếc sườn xám đen bó sát, xẻ cao tận đùi, lộ ra đôi chân trắng nõn. Thêm vào đó, cô ta lại còn biết cách dẫn dắt bầu không khí, lúc nào cũng tươi cười niềm nở…
Dùng lời chửi độc địa nhất nhưng cũng là sự tán thưởng cao nhất của mấy bà vợ trong thôn để nói thì chính là—lẳng lơ.
Trong làng, nhà có tivi thì ít, muốn xem ké cũng phải chen chúc đến mức không có chỗ. Bởi vậy, khi làn sóng thời trang chưa thực sự tràn về nông thôn, cái lẳng của Tiểu Hoàng Oanh chính là một sự “đè bẹp về mặt đẳng cấp” đối với đám phụ nữ trong vùng.
Không chỉ làm mấy ông mê mẩn, mà ngay cả mấy cậu trai mới lớn cũng bị quyến rũ đến mê mệt.
Lúc này, trước cửa nhà xuất hiện một bóng người—Triệu Tứ Mỹ, hàng xóm, cũng là bạn “chị em tốt” lâu năm của Thôi Quế Anh. Trước đây, khi con cái còn nhỏ, hai bà thường ngồi ở bãi đất trống tám chuyện với nhau.
“Ăn chưa đấy?” Thôi Quế Anh hỏi. “Vào đây, thêm đôi đũa đi.”
Triệu Tứ Mỹ vội xua tay, cười nói: “Ấy dà, có đi ăn chực nhà ai thì cũng không dám đến nhà bà đâu, nhìn kìa, nhà bà còn phải ăn cháo loãng thế kia mà!”
“Cháo này dễ tiêu, ấm bụng, tôi thích ăn lắm. Nào nào, để tôi múc cho bà một bát. Dù có vét sạch hũ gạo cũng chẳng đến nỗi thiếu phần của bà đâu!”
“Thôi thôi, tôi ăn rồi.” Triệu Tứ Mỹ khoát tay, rồi hạ giọng nói: “Này, bà biết không, vừa nãy mấy người bên gánh hát đám ma kéo nhau sang nhà ông râu rậm làm loạn đấy! Nghe nói còn đập phá đồ, suýt nữa thì đánh nhau luôn.”
Thôi Quế Anh vừa nghe thấy liền đặt bát đũa xuống, đứng bật dậy, vừa và cơm vừa đi ra cửa:
“Sao thế? Nhà ông râu rậm quỵt tiền diễn à?”
“Không phải chuyện tiền bạc, mà là có người mất tích.”
“Hả? Mất người?” Thôi Quế Anh ngừng đũa, hỏi ngay: “Mất ai?”
“Một ả đàn bà, cái con lẳng lơ, hôm qua múa mà lắc mông đến mức suýt hở cả khe đấy.”
“Có phải Tiểu Hoàng Oanh không?” Phan Tử hỏi.
Mấy đứa trẻ khác cũng vểnh tai lên nghe ngóng.
“Hình như đúng là nó, chính cái con lẳng lơ đó.” Triệu Tứ Mỹ nói, giọng đầy vẻ hả hê.
“Rốt cuộc là mất tích thế nào? Đã tìm thấy chưa?” Thôi Quế Anh hỏi tiếp.
“Nghe nói có người thấy hôm qua nó theo thằng con út nhà ông râu rậm chui vào rừng nhỏ bên sông. Sau đó, nó không quay lại gánh hát nữa, thế là sáng nay bọn họ mới kéo sang nhà ông ta đòi người.”
“Thế còn thằng con út thì sao?”
“Nó vẫn ở nhà, nhưng lại chối bay chối biến, bảo là không biết gì cả. Nhưng mà cả làng này có bao nhiêu người nhìn thấy rồi, rõ ràng nó với con đàn bà đó cùng nhau vào rừng!”
“Vậy còn người đâu?”
“Ai mà biết được, cứ thế mất tích luôn. Gánh hát đến đòi người, nhưng nhà ông râu rậm lại một mực nói không biết, bảo là con lẳng lơ kia tự bỏ trốn.”
“Thế rồi tính sao?”
“Nhà ông râu rậm đưa cho gánh hát một khoản tiền, không ít đâu!”
Thôi Quế Anh lập tức đập nhẹ vào cánh tay Triệu Tứ Mỹ, nhướn mày: “Có chuyện rồi đây!”
Triệu Tứ Mỹ cũng vỗ lại tay Thôi Quế Anh, hất cằm: “Chứ còn gì nữa!”
Lão râu rậm trước đây từng làm phó trạm lương thực trên trấn, đó là một chức béo bở. Dù bây giờ đã nghỉ hưu, nhưng ngoài thằng con út lêu lổng ra, mấy đứa con trai khác đều có công việc ổn định trên trấn. Trong làng này, ngay cả nhà trưởng thôn cũng không bề thế bằng nhà lão.
Thế nên, nếu có thể khiến lão ta cam tâm bỏ tiền ra dàn xếp, vậy thì bên trong nhất định có chuyện mờ ám!
“Thế nhận tiền rồi, gánh hát chịu rời đi à?”
“Đi rồi.”
“Còn người thì sao? Không tìm nữa à?”
“Tìm cái rắm ấy, gánh hát nhận tiền xong là lập tức xách đồ lên xe tải, chạy sang thôn khác diễn rồi.”
“Chậc.” Thôi Quế Anh lắc đầu. “Chỉ mong đừng xảy ra chuyện gì.”
“Ai mà biết được.”
“Người sống, liệu có thể bốc hơi thật sao?”
“Chứ gì nữa.”
Nghe đến đây, Hổ Tử và Thạch Đầu bỗng dưng bật khóc:
“Hu hu hu! Tiểu Hoàng Oanh ơi, Tiểu Hoàng Oanh!”
“Tiểu Hoàng Oanh của cháu, Tiểu Hoàng Oanh mất rồi! Hu hu!”
Triệu Tứ Mỹ nhìn mà suýt nữa phì mũi, chỉ vào hai đứa trẻ, cười nói: “Thấy không? Hai thằng cháu nhà bà đúng là loại si tình nha.”
Thôi Quế Anh liếc bà một cái, hừ nhẹ: “Bà có cháu gái đấy, gả cho một đứa đi?”
“Hứ.” Triệu Tứ Mỹ hừ mũi, rồi chỉ sang Lý Truy Viễn: “Gả thì không phải là không được, nhưng phải gả cho Tiểu Viễn Hầu nhà bà cơ! Để con bé Tiểu Quyên nhà tôi còn được theo nó lên Bắc Kinh hưởng phúc nữa chứ.”
“Đi đi đi, đừng có mơ mộng viển vông.”
Lý Duy Hán đã ăn xong, mấy bà đàn bà buôn chuyện, ông chẳng mấy hứng thú, cũng chẳng tiện chen vào. Ông lặng lẽ cầm tẩu nước lên, mở hộp diêm ra thì thấy trống không.
Lý Truy Viễn đặt đũa xuống, chạy ra phía sau bếp lấy một hộp diêm mang đến.
Lý Duy Hán không nhận lấy mà đưa thẳng nõ tẩu ra trước mặt cháu trai.
Lý Truy Viễn cười, rút một que diêm, “xoẹt” một tiếng nhưng lửa chưa lên, lại “xoẹt xoẹt” mấy cái nữa mới quẹt được lửa. Cậu vội vàng che tay bảo vệ ngọn lửa, cúi xuống châm vào nõ tẩu cho ông nội.
Lý Duy Hán rít liền mấy hơi, khói thuốc tỏa ra, ông hài lòng, nét mặt giãn ra đầy vui vẻ.
Hồi trước, con gái ông cũng thích châm thuốc cho cha, còn nói sau này đi làm sẽ mua hẳn thuốc lá hộp cho ông hút.
“Phù.”
Lý Truy Viễn thổi tắt que diêm, ném xuống đất rồi dùng đế giày dẫm lên mấy lần.
Lúc này, Phan Tử lên tiếng: “Ông ơi, chiều nay chèo thuyền đi hái sen đi ạ?”
Truy cập rungtruyen.com để đọc trọn bộ...
Lý Duy Hán liếc qua bàn cơm đạm bạc, gật đầu: “Gọi cả Lôi Tử đi, mang lưới theo, xem có vớt được con cá nào không, để bà mày nấu canh.”
Nghe vậy, Hổ Tử và Thạch Đầu lập tức quên béng Tiểu Hoàng Oanh, đồng thanh reo lên: “Ông ơi, cho cháu đi với! Cho cháu đi với!”
Đám nhỏ còn lại cũng ồn ào hưởng ứng, sợ có trò vui mà mình lại bị bỏ lỡ.
Lý Duy Hán quét mắt nhìn một vòng, nghiêm giọng dọa:
“Ông bảo cho các cháu biết, trong sông có thủy hầu tử (khỉ nước), chuyên kéo người xuống nước để chết thay chúng. Hễ bắt được ai, chúng nó sẽ thế mạng để đi đầu thai đấy.”
Lập tức, đám trẻ sợ xanh mặt, không dám hé răng.
Thạch Đầu vẫn không cam lòng, nhỏ giọng hỏi: “Thế sao các anh lại được đi?”
Phan Tử và Lôi Tử dù sao cũng lớn rồi, hiểu chuyện hơn, lập tức phối hợp với ông nội dọa em:
“Anh khỏe, khỉ nước kéo không nổi đâu.”
“Anh bơi giỏi, khỉ nước có rượt cũng không bắt được anh.”
Lý Truy Viễn không bị hù dọa, cậu cũng muốn đi lắm, nhưng lại ngại mở miệng, chỉ biết cúi đầu xoa xoa đôi bàn tay nhỏ, thỉnh thoảng lại len lén ngước mắt nhìn ông nội.
Lý Duy Hán chậm rãi nói: “Tiểu Viễn Hầu cũng đi.”
Hổ Tử lập tức bất mãn: “Thế không công bằng! Anh Viễn chỉ hơn cháu có một tuổi thôi mà!”
Thạch Đầu cũng phụ họa: “Đúng thế! Anh Viễn còn không khỏe bằng cháu, sao đánh lại thủy hầu tử được!”
Lý Duy Hán phả ra một vòng khói, rồi chậm rãi đưa ra một lý do vô cùng hợp lý, đến mức ngay cả bọn trẻ cũng không thể phản bác:
“Tiểu Viễn Hầu là người từ nơi khác về, thủy hầu tử ở đây không nhận ra nó.”
Trong thôn, hầu hết nhà cửa đều dựa theo bờ sông mà xây, mặt trước hướng ra đường, mặt sau quay ra sông.
Khi giặt giũ hay rửa rau, chỉ cần xách đồ đi ra cửa sau, bước xuống mấy bậc đá xanh là có thể tới mép sông.
Những người biết tính toán trong sinh hoạt thường dựng một đoạn lưới trên khúc sông nhà mình để nuôi vịt, nuôi ngỗng.
Thuyền của nhà họ Lý được buộc vào gốc cây hồng ở cửa sau. Lý Duy Hán tháo dây, bước lên thuyền trước, dùng sào trúc giữ thuyền ổn định.
Phan Tử ôm cần câu, Lôi Tử cầm lưới cá, lần lượt nhảy lên thuyền.
Lý Truy Viễn đeo một chiếc sọt tre nhỏ sau lưng, được Lý Duy Hán đưa tay đón lên thuyền.
“Tất cả ngồi vững, xuất phát nào!”
Cây sào trúc trên mặt nước cứ thế dài ra rồi lại thu về, con thuyền cũng từ từ rời bến.
Phan Tử và Lôi Tử vốn đã quen rồi, cả hai đều nằm ngả ngớn trên thuyền, trông rất thư thái. Còn Lý Truy Viễn thì ngồi thẳng tắp, chăm chú nhìn những đám rong nước trôi qua bên cạnh, thỉnh thoảng có con chuồn chuồn lướt ngang qua mặt sông.
“Này, Viễn Tử.” Phan Tử đưa cho cậu một nắm đậu rang.
Cậu là con trai trưởng, nhà ở gần ông bà, thường xuyên ghé về, cũng hay lấy chút đồ ăn vặt mang theo. Nhưng mẹ cậu đã dặn kỹ, những thứ này phải lén ăn một mình, tuyệt đối không được chia cho ai.
Ngược lại, mẹ của Lý Truy Viễn thì khi nhờ người mặc quân phục đưa con về quê, còn gửi theo cả một túi lớn đồ ăn vặt—bánh quy, chà bông, trái cây đóng hộp… Hôm kia lại gửi thêm một thùng nữa, tất cả đều bị Thôi Quế Anh khóa trong tủ, mỗi ngày chia ra một ít cho cả đám trẻ con cùng ăn.
“Cảm ơn anh Phan Tử.”
Lý Truy Viễn nhận lấy, bỏ một hạt vào miệng. Loại đậu này ở địa phương gọi là “đậu quyền”, thực ra chính là đậu tằm. Đậu được rang với vỏ, thêm chút gia vị và muối, khi nhai giòn rụm, thơm phức.
Có điều, Lý Truy Viễn lại không thích ăn lắm. Đậu này cứng quá, khó nhai, dễ làm sứt răng.
Vậy nên, khi hai người anh bên cạnh nhai “rôm rốp rôm rốp”, cậu chỉ đặt một hạt trong miệng, ngậm như đang ngậm kẹo.
“Lai y trúng thị thiên thiên yêu ca, phiêu đãng tại lộ thượng~ Lai y trúng thị thiên thiên yêu ca, lương lương kim dạ yêu lương~”
Phan Tử cất tiếng hát.
“Anh hát sai rồi.” Lôi Tử bật cười, “Không phải hát như thế đâu.”
Phan Tử bĩu môi: “Hừ, cậu biết hát thì cậu hát đi!”
Lôi Tử mấp máy môi mấy lần, rồi gãi đầu: “Tớ chỉ nhớ giai điệu thôi.”
Lý Duy Hán, đang chống thuyền, hỏi: “Tụi bây hát cái gì thế? Nghe không hiểu.”
Phan Tử đáp: “Ông ơi, là bài hôm qua Tiểu Hoàng Oanh hát đó, gọi là Việt kịch.”
“Việt kịch?” Lý Duy Hán ngạc nhiên: “Bài vừa rồi là Việt kịch à?”
Lôi Tử lắc đầu: “Không phải đâu, ông ơi, là Nhạc kịch Quảng Đông, kiểu nhạc bên Quảng Đông, Hồng Kông ấy.”
“À, ra vậy. Vậy hát đàng hoàng lại cho ông nghe xem nào.”
Lôi Tử nhìn Phan Tử, cười cười: “Phan Tử hát dở lắm, đến lời còn chẳng nhớ, thua xa Tiểu Hoàng Oanh.”
Thực ra, Tiểu Hoàng Oanh hát cũng chẳng chuẩn gì cho cam. Nhưng đối với dân vùng sâu vùng xa thế này, chuẩn hay không cũng chẳng khác biệt mấy, quan trọng là cái giọng điệu tự tin kia thôi.
Phan Tử đột nhiên chỉ vào Lý Truy Viễn, nói: “Hôm qua Tiểu Hoàng Oanh hát, tớ thấy Viễn Tử cũng hát theo, cậu ấy biết hát đấy.”
Lý Duy Hán liền quay sang cháu ngoại: “Tiểu Viễn Hầu, hát cho ông nghe chút đi.”
Lý Truy Viễn hơi ngại, lí nhí nói: “Cháu chỉ nhớ có một đoạn thôi.”
“Hát đi mà! Hát đi mà!” Lôi Tử giục. “Viễn Tử không chỉ biết hát nhạc Quảng Đông đâu, cậu ấy còn biết cả tiếng Anh nữa kìa!”
Không còn cách nào khác, Lý Truy Viễn đành cất giọng:
“Lai rì dọng sỉ thiên thiên khuế cơ, phiêu du viên phương ngã lộ thượng.
“Lai rì dọng sỉ thiên thiên vãn tinh, lượng quá kim vãn nguyệt lượng.”
Cậu hát xong, gãi gãi má: “Cháu chỉ nhớ đến đây thôi, vì mẹ cháu rất thích bài này, ở nhà thường bật nghe.”
Lôi Tử đắc ý nhìn Phan Tử: “Thấy chưa? Lời cậu hát sai bét rồi.”
Phan Tử bực mình trừng mắt lườm Lôi Tử.
Mấy anh em cứ vừa trò chuyện vừa cười đùa, con thuyền cũng dần trôi đến khúc sông rộng hơn.
Phan Tử đi giúp ông nội chống sào, Lý Duy Hán bắt đầu vừa chọn vị trí vừa gỡ lưới đánh cá, Lôi Tử thì dựng cần câu lên.
Lý Truy Viễn không được giao việc gì, chỉ ngồi yên trên thuyền, đeo cái giỏ tre nhỏ sau lưng, lúc thì nhìn ông nội và các anh bận rộn, lúc lại nhìn mặt sông, nơi lũ bèo trôi lững lờ, thỉnh thoảng có vài con ếch nhảy lạch bạch trên đó.
Nhìn một lúc, cậu đột nhiên nghi hoặc, hơi nhổm người lên, nheo mắt nhìn chằm chằm về phía trước.
Lý Duy Hán vẫn luôn để ý đến “cháu ngoại”, thấy thế liền nhắc: “Tiểu Viễn Hầu, ngồi vào trong, coi chừng ngã xuống sông đấy!”
Lý Truy Viễn chỉ về phía mặt nước trước thuyền, hỏi: “Ông ơi, anh ơi, đằng kia có một đám rong đen kìa.”
“Đâu?” Lôi Tử nhìn theo hướng cậu chỉ, chợt kêu lên: “Ủa? Đúng là có một đám rong màu đen thật!”
“Đâu đâu? Ở đâu?” Phan Tử lúc này đang ở đuôi thuyền, lo chống sào nên không nhìn rõ, bèn chủ động đẩy thuyền tiến lại gần chỗ đó.
Ban đầu, Lý Duy Hán cũng chẳng để tâm, ông còn đang bận tháo gỡ lưới đánh cá. Nhưng nghe Lý Truy Viễn và Lôi Tử cứ ríu rít bàn tán, ông mới ngẩng đầu nhìn về phía trước—
Chỉ một cái nhìn, sắc mặt ông lập tức thay đổi!
Đám rong đó… đen nhánh mà mảnh mượt, tỏa ra rồi lại kết chặt, tuy trôi nổi nhưng không hề tan rã—
Đây nào phải rong rêu gì, đây rõ ràng là tóc người!
Lúc này, vì Phan Tử không ngừng chống thuyền tiến gần hơn, khoảng cách ngày càng rút ngắn, phần dưới mặt nước cũng dần hiện rõ. Những đường vân đen, những chiếc cúc áo trắng, những đường nét uốn lượn…
Do Lý Truy Viễn đang ngồi, nên người đầu tiên nhìn thấy phần dưới mặt nước chính là Lôi Tử đang đứng bên cạnh cậu. Lôi Tử lập tức hét lớn:
“Ông ơi! Là người! Có người rơi xuống nước! Phan Tử, mau chống thuyền qua cứu người!”
Chuyện thủy hầu tử (khỉ nước) từ lâu đã không còn dọa được bọn trẻ lớn như chúng. Bản tính thuần hậu khiến chúng ngay lập tức nghĩ rằng có người gặp nạn, phản ứng đầu tiên chính là lao vào cứu giúp.
“Con mẹ nó, đừng có nói bậy!”
Lý Duy Hán bỗng nhiên quát lớn.
Vị ông nội trước nay nghiêm khắc nhưng hiền hậu, hiếm khi nổi nóng với cháu chắt, nay lại đột nhiên mất kiểm soát. Làn da sạm nắng, thô ráp của ông nổi rõ gân xanh, bàn tay cứng cáp lập tức ném chiếc lưới đánh cá xuống thuyền, sải bước về phía đuôi thuyền, quát lên với Phan Tử:
“Quay thuyền! Quay thuyền ngay! Đưa sào cho ông, đừng có lại gần!”
Thuyền nhà mình đã vào khu vực này một lúc lâu, hoàn toàn không nghe thấy tiếng ai rơi xuống nước. Hiện tại mặt sông lại yên ắng, chẳng một gợn sóng. Nếu thật sự có người gặp nạn, thì lúc này chắc chắn đã chết từ lâu rồi!
Nhưng theo lẽ thường, dù có gặp thi thể trôi sông, cùng lắm chỉ thấy xúi quẩy mà thôi, có gì đáng để ông phải thất thố đến mức này?
Lý Duy Hán thừa biết, lúc này điều duy nhất có thể làm chính là nhanh chóng rời khỏi nơi này càng xa càng tốt.
Vùng này sông ngòi chằng chịt, kề sông giáp biển, chuyện chết đuối chẳng phải chuyện gì lạ. Gần như mỗi làng đều có một người chuyên làm nghề vớt xác trên sông.
Thông thường, đây không phải nghề chính, nhưng người đảm nhận thì lại rất cố định. Một là vì xúi quẩy, hai là do điều kiêng kỵ quá nhiều, không phải thợ vớt có truyền nghề thì chẳng ai dám động vào công việc này.
Ở thôn Tư Nguyên cũng có một người làm nghề này, tên là Lý Tam Giang. Xét theo vai vế trong họ, Lý Duy Hán còn phải gọi ông ta một tiếng thúc.
Lý Tam Giang không con không cái, ruộng đất được chia cũng chẳng buồn trồng trọt, mà cho thuê để lấy chút lương thực sống qua ngày.
Thế nhưng, ông ta chẳng phải kiểu kẻ lười biếng bữa đói bữa no. Nghề của ông có hai loại, một là làm hàng mã, hai là vớt xác trên sông. Cả hai công việc này đều kiếm được không ít tiền, hơn hẳn mấy người chỉ biết trồng trọt. Thành ra, dù sống một mình, nhưng ông ta ngày nào cũng rượu thịt đủ đầy, hưởng thụ không thiếu thứ gì.
Mấy năm trước, vì muốn giúp bốn đứa con trai lập gia đình, Lý Duy Hán đã thuê lại ruộng đất của Lý Tam Giang để canh tác. Đó là một món lợi lớn, bởi vậy, những khi có người thuê Lý Tam Giang đi vớt xác, Lý Duy Hán cũng thi thoảng theo giúp một tay.
Dù Lý Tam Giang chưa bao giờ để ông lên thuyền đụng vào thi thể, chỉ bảo ông ở trên bờ phụ trách bày bàn cúng, chuẩn bị máu gà, máu chó, nhưng làm lâu ngày, Lý Duy Hán cũng ít nhiều học được một số điều về nghề vớt xác.
Trong nghề này, thi thể nổi trên sông được gọi là “tử đảo”.
Theo lẽ thường, người chết đuối sau vài ngày ngâm nước, thi thể sẽ từ từ phân hủy rồi trương phình lên và nổi lên mặt nước. Vì cấu tạo khung xương chậu, nam giới thường nổi úp mặt xuống, nữ giới thì ngửa mặt lên trời.
Đa số các trường hợp tử đảo, chỉ cần thực hiện đủ quy trình cần thiết, Lý Tam Giang sẽ vớt lên, đưa thi thể về cho người thân.
Nhưng có một lần uống rượu, Lý Tam Giang đã nhấn mạnh rằng, có hai loại thi thể đặc biệt, ngay cả ông ta cũng không dám vớt.
Một là tử đảo xuất hiện xoáy nước, điều này có nghĩa là gần đó có hố bùn lún hoặc lỗ hút nước ngầm, không cẩn thận có thể bị cuốn cả người lẫn thuyền vào.
Còn loại thứ hai…
Loại mà ngay cả Lý Tam Giang cũng phải run môi, rùng mình khi nhìn thấy…
Chính là loại “tử đảo” chỉ để lại tóc nổi trên mặt nước, còn cơ thể đứng thẳng dưới đáy sông!
Đây là những kẻ chết đầy oán hận, không nhắm mắt mà chết, nhất định phải kéo theo một người thế mạng!
Lý Duy Hán vẫn nhớ như in lần uống rượu đó, Lý Tam Giang trợn đôi mắt đỏ ngầu, nghiêm túc dặn dò ông:
“Hán Hầu, nhớ kỹ! Nếu mày thấy loại ‘tử đảo’ này trên sông, đừng nghĩ ngợi gì cả! Chạy được bao xa thì chạy bấy nhiêu! Chạy chậm là bị nó giữ lại đó!”
Bởi vậy, khi phát hiện thi thể này đang đứng dưới nước, tim Lý Duy Hán gần như ngừng đập! Chưa kể, trên thuyền lúc này còn có ba đứa cháu của ông!
Nhưng rõ ràng, Phan Tử vẫn chưa nhận ra mức độ nghiêm trọng của tình huống. Khi ông nội giật lấy cây sào trong tay cậu, cậu mất thăng bằng, vô tình cắm sào xuống bùn nghiêng một bên, khiến con thuyền lệch mạnh sang phải.
Người quen đi thuyền như Lôi Tử thì không hề hấn gì, nhanh chóng cúi người bám chặt mép thuyền để giữ thăng bằng.
Nhưng Lý Truy Viễn lại không có kinh nghiệm này!
Cậu bị quán tính kéo mạnh về phía trước, mất kiểm soát—
“Bùm!”
Cả người cậu rơi thẳng xuống nước—
Ngay về phía thi thể kia!
Nước sông trong vắt.
Lại đang giữa buổi trưa, ánh mặt trời chiếu xuống khiến lòng sông sáng rõ.
Vừa rơi xuống nước, theo bản năng, Lý Truy Viễn quẫy đạp loạn xạ. Nhưng ngay khoảnh khắc nhìn thấy trước mắt—
Cậu lập tức sững sờ!
Giống hệt như lời Lôi Tử nói…
Dưới nước, có một người đang đứng!
Và người đó không phải ai khác, chính là Tiểu Hoàng Oanh mà hôm nay mấy anh em trên bàn cơm còn nhắc đến!
Cô ta vẫn mặc nguyên bộ sườn xám đen của hôm qua, những chiếc cúc áo trắng vẫn còn đó, tà váy xẻ cao đến tận eo, dưới chân vẫn là đôi giày cao gót đỏ rực.
Dòng nước chảy nhẹ nhàng, đẩy hai cánh tay cô ta đung đưa về trước rồi ra sau, đôi chân cũng theo đó mà lay động.
Cả thân người cô ta giống như đang bước đi dưới nước.
Cô ta vẫy tay, cô ta lắc eo, cô ta duỗi chân, cô ta kiễng gót, cô ta… hát.
Ngay cả khi đã chìm xuống đáy sông, cô ta vẫn diễn trọn vẹn phong thái của một ả đàn bà lẳng lơ, thứ mà phụ nữ trong thôn vừa ghen tỵ, vừa khinh thường.
“Lai rì dọng sỉ thiên thiên khuế cơ, phiêu du viên phương ngã lộ thượng…”
Tựa như vọng lại từ đâu đó, giọng hát không chuẩn tiếng Quảng Đông của Tiểu Hoàng Oanh lại vang lên bên tai cậu.
Theo tiếng hát, cô ta từ từ quay người lại, đối diện với Lý Truy Viễn.
Mái tóc dài tỏa ra trên mặt nước, tựa như một chiếc ô đen khổng lồ.
Lớp phấn trên mặt cô ta còn dày hơn hôm qua, môi đỏ hơn, như thể nhuốm máu tươi.
Đột nhiên—
Cô ta cười!
Cảm ơn bạn Phung Chi Quyen donate cho bộ Quang Âm Chi Ngoại 50K!!!
Mời nghe audio truyện trên Youtube Chanel Rungtruyencom
Nếu có thể xin vui lòng góp vài đồng mua truyện bạn nhé!
Techcombank - Lê Ngọc Châm 19025680787011
PayPal: lechamad@gmail.com
Momo: 0946821468
Chưa có thảo luận nào cho bộ truyện này.